Chia sẻ
Nghiên cứu mới nêu bật những lựa chọn mà bệnh nhân có trong việc điều trị hiệu quả bệnh viêm khớp
Nghiên cứu mới nêu bật những lựa chọn mà bệnh nhân có trong việc điều trị hiệu quả bệnh viêm khớp

Chúng đã được chấp thuận cho thị trường Hoa Kỳ từ năm 2012, nhưng thuốc ức chế Janus kinase (JAK) vẫn là thuốc mới trong điều trị viêm khớp dạng thấp. Do đó, bằng chứng thực tế về nhóm thuốc này rất khan hiếm so với các phương pháp điều trị đã được thiết lập.

Giờ đây, các nhà nghiên cứu ở Nhật Bản đã thực hiện một bước quan trọng trong việc thay đổi điều đó, sử dụng dữ liệu rộng rãi về bệnh nhân để chứng minh rằng thuốc ức chế JAK là phương pháp điều trị bậc một hiệu quả như các loại thuốc hiện có, mặc dù chúng phần lớn vẫn được coi là kế hoạch dự phòng nếu các thuốc khác thất bại.

Các nhà nghiên cứu lưu ý trong nghiên cứu: “Các bệnh nhân trong thế giới thực có những đặc điểm khác so với những bệnh nhân được tuyển chọn trong các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng. Vì vậy, điều quan trọng là phải điều tra tính hiệu quả và an toàn của thuốc ức chế JAK trong môi trường thực tế”.

Phân tích dữ liệu của 622 bệnh nhân từ nghiên cứu thuần tập ANSWER, các nhà khoa học đã đánh giá bốn chất ức chế JAK; baricitinib (BAR) được biết đến ở Hoa Kỳ với tên Olumiant, tofacitinib (TOF) được gọi là Xeljianz và upadacitinib (UPA) được gọi là Rinvoq. Họ cũng đánh giá peficitinib (PEF), hay Smyraf, loại thuốc chủ yếu có sẵn ở Nhật Bản và Đông Nam Á.

Tiến sĩ Shinya Hayashi, chuyên gia về thấp khớp tại Đại học Kobe, cho biết: “Chúng tôi nhận thấy rằng hầu hết bệnh nhân đều thành công với những loại thuốc này và hiệu quả cũng như độ an toàn của từng loại thuốc ức chế JAK này không khác biệt đáng kể trong điều trị viêm khớp dạng thấp”. “Những loại thuốc này cung cấp các lựa chọn khi thuốc chống thấp khớp sinh học (DMARDS) không thành công.”

Chất ức chế JAK làm gián đoạn các tín hiệu gây viêm. Với bệnh viêm khớp dạng thấp, cơ thể tạo ra quá nhiều protein gọi là cytokine, chất này đóng vai trò chính trong tình trạng viêm. Khi các cytokine này gắn vào các thụ thể tế bào miễn dịch, thông điệp sẽ được đưa ra là tạo ra nhiều protein hơn nữa. Các chất ức chế JAK ngăn chặn con đường truyền tin này, giúp làm dịu phản ứng của hệ thống miễn dịch và từ đó làm giảm chứng viêm khớp đau đớn.

Thuốc ức chế JAK cũng có hiệu quả trong điều trị các tình trạng da như chàm và bạch biến, và hiện có khoảng chục loại khác nhau được chấp thuận sử dụng ở Mỹ.

Theo truyền thống, phương pháp điều trị đầu tiên cho bệnh viêm khớp dạng thấp thường là tiêm methotrexate , DMARD. Sau đó, nếu thuốc không có tác dụng hoặc có quá nhiều tác dụng phụ, bệnh nhân có thể được chuyển sang dùng thuốc ức chế JAK đường uống. Các bệnh nhân trong nghiên cứu đã dùng thuốc ức chế JAK sau khi đáp ứng kém với DMARD.

Nhưng vì chúng là một loại thuốc mới hơn, giống như chất chủ vận peptide 1 (GLP-1) giống glucagon để giảm cân nên chúng thường được coi là kế hoạch B ‘khi mọi cách khác đều thất bại’. Các bác sĩ thường kê toa thuốc sinh học DMARD trước tiên, bởi vì có nhiều nghiên cứu lâu dài hơn về những điều này.

Các nhà nghiên cứu, đánh giá dữ liệu bằng nhiều cuộc khảo sát về chỉ số cơn đau khác nhau, đã phát hiện ra rằng khoảng 90% trong số 622 bệnh nhân vẫn đang dùng thuốc ức chế JAK sáu tháng sau khi bắt đầu sử dụng.

Nhìn chung, khoảng một phần ba số bệnh nhân thấy bệnh viêm khớp của họ thuyên giảm trong vòng sáu tháng, với hơn 80% trải qua ‘hoạt động bệnh thấp’, trong đó các triệu chứng phần lớn được kiểm soát.

Sự do dự trong việc sử dụng thuốc ức chế JAK là do lo ngại về hiệu quả thực tế ngoài các thử nghiệm có kiểm soát – điều mà nghiên cứu này cho là không cần thiết – và các tác dụng phụ tiềm ẩn.

Mặc dù các nhà nghiên cứu cho biết nghiên cứu này có những hạn chế, chẳng hạn như sáu tháng là khung thời gian ngắn cho các tác dụng phụ lâu dài và thiếu nghiên cứu so sánh tất cả các nhóm thuốc, bốn chất ức chế JAK hoạt động tương tự nhau và hiệu quả của chúng được chứng minh là ngang bằng với DMARD hiện có. Một nghiên cứu lâm sàng trước đây cho thấy chúng có hiệu quả tương đương với thuốc ức chế TNF, một loại DMARD khác.

Khoảng 1,3 triệu người Mỹ mắc bệnh viêm khớp dạng thấp , một tình trạng tự miễn dịch mãn tính có thể làm giảm đáng kể chất lượng cuộc sống và khó điều trị.

Nghiên cứu được công bố trên tạp chí Thấp khớp .

admin

By admin

Kiến thức mỗi ngày: Công nghệ, Khoa học, Quân sự, Vũ trụ, Y học, Đời sống, bí ẩn...

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *