Chia sẻ
Một nghiên cứu đã tìm thấy mô hình sử dụng nhất quán ở hầu hết các quốc gia, cho thấy phụ nữ trẻ có hành vi sử dụng điện thoại thông minh có vấn đề nhất
Một nghiên cứu đã tìm thấy mô hình sử dụng nhất quán ở hầu hết các quốc gia, cho thấy phụ nữ trẻ có hành vi sử dụng điện thoại thông minh có vấn đề nhất

Một nghiên cứu mới từ một nhóm các nhà nghiên cứu ở Canada đang cung cấp một trong những bức chân dung lớn nhất cho đến nay về việc sử dụng điện thoại thông minh toàn cầu. Khảo sát hàng nghìn người trên gần 200 quốc gia, nghiên cứu đã phát hiện ra các mô hình sử dụng nhất quán một cách bất ngờ, thách thức các định nghĩa hiện tại về chứng nghiện điện thoại thông minh.

Chỉ trong vòng 15 năm, điện thoại thông minh đã trở thành vật dụng quan trọng đối với hầu hết con người trên toàn cầu. Bất chấp sự phổ biến đáng kinh ngạc của các thiết bị này, các nhà nghiên cứu vẫn đang cố gắng tìm hiểu chính xác công nghệ mới này đang ảnh hưởng đến sức khỏe của chúng ta như thế nào.

Một nghiên cứu được công bố năm ngoái đã khảo sát hàng nghìn người trưởng thành trên 14 quốc gia. Họ đang tìm kiếm các mô hình sử dụng điện thoại thông minh có vấn đề và nhận thấy phụ nữ trẻ luôn tự báo cáo tỷ lệ cao nhất mà các nhà nghiên cứu gọi là PMPU (Sử dụng điện thoại di động có vấn đề).

Nghiên cứu mới này nhằm mục đích mở rộng đáng kể tập dữ liệu nhân khẩu học đó để xem liệu các kiểu sử dụng điện thoại thông minh có vấn đề tương tự có nhất quán ở các vị trí địa lý khác nhau hay không. Để làm điều này, các nhà nghiên cứu đã khảo sát 50.423 đối tượng trên 195 quốc gia.

Mỗi đối tượng đã hoàn thành một cuộc khảo sát ngắn gọn có tên là Thang đo mức độ nghiện điện thoại thông minh – Phiên bản ngắn (SAS-SV). Cuộc khảo sát bao gồm 10 câu phát biểu được người tham gia đánh giá từ 1 (rất không đồng ý) đến 6 (rất đồng ý). Cuộc khảo sát bao gồm các câu như “Tôi khó tập trung trong lớp, khi làm bài tập hoặc khi làm việc do sử dụng điện thoại thông minh” và “Tôi nhớ công việc đã lên kế hoạch do sử dụng điện thoại thông minh.”

Có lẽ phát hiện tổng thể nổi bật nhất trong nghiên cứu là từ 29 đến 31% trong số những người được khảo sát nhận được điểm SAS-SV về mặt kỹ thuật, phân loại họ là có nguy cơ nghiện điện thoại thông minh cao. Khi xem xét 41 quốc gia có dữ liệu được thu thập nhiều nhất (hơn 100 người tham gia), nghiên cứu luôn cho thấy phụ nữ trẻ là nhóm nhân khẩu học có nguy cơ sử dụng điện thoại thông minh có vấn đề cao nhất. Theo đồng tác giả nghiên cứu Jay Olsen, kết quả nhất quán mạnh mẽ này thật bất ngờ.

Olson cho biết trong một cuộc phỏng vấn gần đây với CTV : “Sự nhất quán như vậy trên toàn thế giới sẽ cho thấy rằng đây không phải là một phát hiện ngẫu nhiên mà đến từ cách một quốc gia giải thích quy mô… có vẻ như đây là một phát hiện toàn cầu vững chắc”. Tin tức .

Quy mô toàn cầu của cuộc khảo sát cho thấy một số khác biệt thú vị giữa các vùng. Ví dụ, Đông Nam Á báo cáo một số tỷ lệ sử dụng điện thoại thông minh có vấn đề cao nhất so với tỷ lệ sử dụng có vấn đề tương đối thấp ở châu Âu. Olsen suy đoán những khác biệt về địa lý này có thể là do sự kết hợp của những khác biệt về văn hóa (chẳng hạn như sự chú trọng nhiều hơn đến kết nối gia đình dẫn đến các cuộc gọi điện thoại thường xuyên hơn) và xu hướng công nghệ rộng hơn.

“Một số quốc gia đã bỏ qua việc phổ biến máy tính xách tay và máy tính để bàn,” Olson gợi ý, đề cập đến việc sử dụng Internet rộng rãi gần đây ở các nước Đông Nam Á sau sự ra đời của điện thoại thông minh. Vì vậy, có thể một số quốc gia có tỷ lệ sử dụng điện thoại thông minh cao hơn do công nghệ mà người dân đang sử dụng để tương tác với Internet.

Olson rất ý thức được những hạn chế trong dữ liệu nghiên cứu của mình. Khó có khả năng 1/3 tổng số người dùng điện thoại thông minh trên thế giới nghiện thiết bị của họ, ít nhất là theo nghĩa truyền thống, chứng nghiện là một thứ gì đó có mối liên hệ tiêu cực đáng kể. Ông nói rằng ngày nay có rất nhiều lý do khác nhau khiến mọi người sử dụng thiết bị của họ nên nghiên cứu trong tương lai sẽ cần phải có nhiều sắc thái hơn về cách ghi lại việc sử dụng điện thoại thông minh.

“Người quản lý phương tiện truyền thông xã hội có thể ghi lại tám giờ sử dụng thiết bị mỗi ngày, nhưng điều này không nhất thiết gây ảnh hưởng có vấn đề đến cuộc sống của bạn so với những người sử dụng điện thoại của họ trong nửa giờ từ nửa đêm đến 12:30 sáng trong khi cố gắng ngã. đang ngủ,” Olson lưu ý.

Bên cạnh quan sát này, Olson cũng suy đoán rằng cần phải xem xét lại cách chúng ta xác định chứng nghiện điện thoại thông minh. Mặc dù SAS-SV là một cách cực kỳ hữu ích và chính xác về mặt lâm sàng để phân loại việc sử dụng điện thoại thông minh có vấn đề trong gần một thập kỷ, một số điểm dữ liệu trong nghiên cứu mới đặt câu hỏi về giá trị của các danh mục này.

Chẳng hạn, có 56% phụ nữ trong độ tuổi đại học ở Canada đáp ứng các tiêu chí về việc sử dụng điện thoại thông minh có vấn đề, theo điểm số SAS-SV. Vì vậy, câu hỏi trị giá hàng triệu đô la: phần lớn nhóm thuần tập này có thực sự mắc chứng nghiện điện thoại thông minh nghiêm trọng hay công nghệ mới này đã ăn sâu vào việc sử dụng phổ biến đến mức chúng ta cần phải nghĩ ra những cách mới để đo lường hành vi có vấn đề?

Olson suy đoán : “Có vẻ như các chuẩn mực xã hội đã thay đổi và điện thoại thông minh đã thực sự trở nên tích hợp trong cuộc sống của chúng ta” . “Có thể không có ý nghĩa gì khi nói rằng một nữ sinh viên trung bình ở Canada nghiện điện thoại về mặt lâm sàng. Có lẽ xã hội đã thay đổi nhiều hơn và việc sử dụng điện thoại thông minh quá mức hiện nay đã trở nên bình thường hơn.”

Nghiên cứu mới được công bố trên Tạp chí Quốc tế về Sức khỏe Tâm thần và Nghiện .

admin

By admin

Kiến thức mỗi ngày: Công nghệ, Khoa học, Quân sự, Vũ trụ, Y học, Đời sống, bí ẩn...

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *